Trong lần về Hà Nội thăm ông bà gần đây nhất, em đã có dịp được đến thăm quan Văn Miếu Quốc Tử Giám, một trong những công trình kiến trúc thể hiện sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam ta từ những thế kỷ XXI. Nơi đây cũng là một trong những địa điểm vô cùng thu hút khách du lịch của Hà Nội.
Trong lần về Hà Nội thăm ông bà gần đây nhất, em đã có dịp được đến thăm quan Văn Miếu Quốc Tử Giám, một trong những công trình kiến trúc thể hiện sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam ta từ những thế kỷ XXI. Nơi đây cũng là một trong những địa điểm vô cùng thu hút khách du lịch của Hà Nội.
Chào mừng quý khách đã đến với khu di tích Văn Miếu -Quốc tử Giám
Trước tiên cho phép tôi xin phép được tự giới thiệu :tên tôi là……… là thuyết minh viên tại di tich Văn Miếu –Quốc Tử Giám –là trường đại học đầu tiên và cũng là biểu tượng cho văn hoá lịch sử Việt Nam.
Thay mặt cho BQL di tich tôi xin gửi lời chúc sức khoẻ đến tất các bạn.Chúc các bạn có một buổi tham quan vui vẻ va bổ ích.
Hôm nay tôi rất vinh dự đuọc cùng các bạn đi tham quan Văn Miếu Quốc Tử Giám –một trường đại học có hằng nghìn năm trước ,là khu di tích văn hoá hằng đầu và là niềm tự hào của ngưòi dân thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn hiến của hà nội.
Để cho buổi tham quan hôm nay đựơc diễn ra an toan và vui vẻ,tôi xin lưu ý với các bạn một số điều sau:các bạn không nên nói to và nô đùa khi tham quan bên trong ,không vứt rác bừa bãi không giẫm lên cỏ ,không nên tách đoàn và đặc biệt là không nên “xoa” lên đầu các cụ rùa.
Vâng,chúng ta sẽ có 2 tiếng để tham quan di tích .bây giờ là 9h và đúng 11h các bạn tập trung tại đây,trước cổng Văn Miếu ,đối diện với quầy bán vé.và bây giờ xin mời các bạn vào tham quan Văn Miếu.
Thưa các bạn Văn Miếu là tên viết tắt của Văn Tuyên Vương Miếu tức là Miếu thờ Văn Tuyên Vương Khởng Tử.Tuy nhiên ,hiện nay mọi người hiểu Văn Miếu là Miếu Văn ,từ “Văn”mang nghĩa là văn hóa ,văn minh,văn học là nét đẹp của con người.
Văn Miếu được xây dựng vào tháng 8 năm canh tuất(tức tháng 10 năm 1070)tức năm Thần Vũ thứ 2 đời Vua Lê Thánh Tông.Ông cho lập Văn Miếu làm nơi thờ ác ông tổ Nho giáo và Nho học như Chu Công _Khổng Tử.
Nhìn tổng thể thì Văn Miếu là khu đất hình chữ nhật khá rộng với diện tích khoảng 54000m2 được bao quanh bởi một khu tường có chiều dài hơn 300m va rộng 700m,chạy từ đường Quốc Tử Giám đến đầu phố Nguyễn Thái Học.Văn Miếu xưa là đất Hữu Nghiễm huyện Thọ Xương,nay thuộc quận Đống Đa Hà Nội.Quần thể kiến trúc văn miếu được bố cục đăng đối từng khu,từng lớp theo trục bắc nam,mô phỏng tổng thể quy hoạch khu văn miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ,Sơn Đông,Trung Quốc.Tuy nhiên,quy mô ở đây đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc .Toàn bộ kiến trúc văn miếu đều là kiến trúc đầu nhà Nguyễn.Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch vồ,loại gạch đặc trưng từ thời Lê ,có tuổi thọ trên 300 năm tuổi.
Bên ngoài có tường bao quanh bên trong được chia làm 5 khu.
Và bây giờ tôi sẽ cùng các bạn tham quan lần lựơt các lớp kiến trúc.trước tiên là Hồ Văn.
Hồ Văn xưa kia gọi là Thái Hồ,có diện tích là 12297m2,giữa hồ có gò Kim Châu,trên gò dựng Phán Thuỷ đường là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa.Nhà Phán Thuỷ nay không còn nhưng trên gò nay còn một tấm bia dựng năm Tự Đức thứ 1891865)trong dịp tu sửa Văn Miếu và nạo vét Hồ Văn.
Các nhà nghiên cứu ngày nay cho rằng bên cạnh giá trị về cảnh đẹp du ngoạn còn có giá trị về triết học tâm linh theo lối kiến trúc “thượng gia hạ trì”.
Đối diện với Hồ Văn là cổng Tam quan .Khu này được bắt đầu bằng Tứ Trụ và hai bia Hạ Mã ở hai bên .trước kia Tứ Trụ soi bong xuống mặt Hồ Văn nhưng nay đã bị ngăn cách bởi phố Quốc Tử Giám.
Tứ Trụ được xây bằng gạch hai trụ giữa xây cao hơn có hình hai con nghê chầu vào.theo quan niệm tâm linh xưa ,con nghê là con vật linh không hại ai,nó có khả năng nhận ra kẻ ác hay người thiện.Hai trụ ngoài đắp nổi 4 con chim phượng xoè cánh,đuôi chắp vào nhau.Phượng là con vật linh biểu hiện cho tầng trên với ý nghĩa:đầu đội chân lí,mắt là mặt trời,lưng cõng bầu trời,long là cây cỏ,cánh là gió ,đuôi là tinh tú ,chân là đất. Vì thế nó tượng trưng cho cả vũ trụ mang tư cách vận chuyển bầu trời.
Hai tấm bia Hạ Mã được đặt trong hai nhà bia nhỏ xây gạch ,xưa kia dù công hầu hay khanh tướng ,dù võng lọng hay ngựa xe hễ đi qua Văn Miếu đều phải xuống đi bộ ít nhất từ tấm bia Hạ Mã nay sang tấm bia Hạ Mã kia lại mới lên ngựa lên xe đi tiếp.
Trước mắt chúng ta là lối vào chính khu Văn Miếu ,ở phía nam chính là văn miếu môn.Văn Miếu Môn tức là cổng quan ngoài cùng ,cổng Tam Quan lớn xây 2 tầng 3 cửa.Cửa giữa to,tầng trên có đề chữ”Văn Miếu Môn”.Kiến trúc cùa Văn Miếu Môn khá độc đáo và đẹp mắt.Đây là kiểu kiến trúc hai tầng tám mái .Nhìn bề ngoài ,Tam Quan là một kiểu kiến trúc riêng biệt cửa chính giữa xây hai tầng .Mặt bằng hình vuông,tầng dười to,tầng trên nhỏ chồng lên tầng dưới ,xung quanh thừa ra một hang hiên nhỏ bốn mặt có lan can.Phía bên trong tầng dưới chỉ mở một của cuốn.Đây là hai cánh của bằng gỗ lim mở vào trong,cửa hình bán nguyệt và chạm nổi hình đôi rồng chầu mạn nguyệt.Hai cửa nhỏ hai bên là bậc lên tnầg hai quan trọng.Tầng 2 chính là tam quan mở 3 cửa cuốn không có cánh cửa.Tầng trên là tám mái,bốn mái hiên và bốn mái nóc cong lên o bốn góc.Bờ nóc cũng có đắp nổi “lưỡng long chầu nguyệt”,thể hiện sự hài hoà âm dương.Ở đây có các cánh cửa ở các bậc cổng ,hình ành này xuất hiện khá nhiều .Lưỡng long chầu mạn nguỵêt nhằm biểu dương cho Nho Giáo.
Trước kia ,trên cổng tam quan có dựng một tấm bia khắc hai bài thơ tứ tuyệt của vua Khải Định khi đi bắc tuần ghé thăm Văn Miếu năm 1891.Bia đó nay khôna còn chỉ còn hai bệ bia bằng đá ,hai mặt bệ là hình hổ phù rất đẹp .Hổ Phù là một quỷ vương kẻ thù của mặt trăng và mặt trời,hay tìm nuốt mặt trăng và mặt trời tạo ra hiện tượng nguyệt thực và nhật thực:nguyệt thực toàn phần được người Việt Nma xem như là đói và chiến tranh,Nguyệt thực một phần sẽ no đủ cho nên người ta hay chạmHổ Phù về mặt trăng sa,sau nay thay bằng chữ nho hay hoa cúc để cầu sự no đủ.
Phía trước cổng tam quan là đôi rồng đá cách điệu thời Lê ,bên trong là đôi rồng mang phong cách đời Nguyễn .Hai mặt tam quan đều được đắp nổi hai câu đối chữ Hán.Bên trái trước cổng tam quan đắp nổi cảnh “long ngư hội tụ” cá-rồng ẩn hiệntrong mây ví như cảnh thanh vân đắc lộ của các nho sinh thành đạt,bên phải là cảnh “mảnh hổ hạ sơn” núi rừng mây nước nổi bật lên dáng dấp của một con hổ hung dũng xuống núiví như các bậc thức giả khí thế bước vào đời.
Tiếp theo là “tả môn” và “hữu môn” ở hai bên nhỏ hơn và thấp hơn cũng xây bốn mái hiên và bốn mái nóc nhìn tựa như kiến trúc hai tầng .Cổng tam quan chỉ được mở khi các bậc vua quan tới thăm văn miếu và tế lễ Khổng Tử .Còn học trò và thứ dân thì phải đi bằng hai cửa ngách.Vâng ,bây giờ chúng ta sẽ thử một lần được làm vua,tiếp tục đi qua cổng giữa để vào thăm văn miếu.
Theo con đường lát gạch này dẫn tới khu thứ hai được bắt đầu bằng cửa “Đại Trung Môn”,2 bên là hai cổng nhỏ có tên là”thành đức “và ‘đạt tài” mang ý nghĩa nho giáo đào tạo con người vừa có đức vừa có tài.Cổng Đại Trung gồm 3 gian ,xây trên nền gạch cao,mái lợp ngói mũi hài ,có hai hang cột trước và sau,ở giữa là:”hàng cột chống nóc”.Bên trên cổng chính là hình haio con cá chép chầu bình móc ở giữa.Sở dĩ có hình ảnh cá chép bởi theo truyền thuyết Trung Quốc :cá vượt vũ môn.Hằng năm trời tổ chức cuộc thi kén rồng ở của Vũ-con cá nào mà nhảy qua được một lúc ba đợt khác nhau thì lập tức có tiếng sấm nổ ,cá biến thành Rồng.Và chỉ có cá chép là làm được điều đó.ngày nay các bạn nhìn cá trê đầu nó bẹp vì người ta cho rằng trong cuộc thi nó đã không vượt qua được và đầu nó va vào đá.con cá chày mắt đỏ vì nó không vượt qua nên khóc nhiều quá…Do vậy, của Vũ được dung để chỉ chốn trường thi:cá vượt vũ môn”chỉ việc thi cử ,muốn đỗ đạt thi phải tích góp kiến thức,học tập chăm chỉ.
Qua cửa Đại Trung Môn,các bạn tiếp tục đến vớikhu vực thú ba cùa Văn Miếu-Quốc Tử Giám-Khuê Văn Các.
Khuê Văn Các hay còn gọi là Gác Khuê Văn .Là một lầu vuông tám mái được xây dựng vào năm 1805 đời vua gia long triều Nguyễn.Gác dựng trên một nền vuông cao ,lát gạch Bát Tràng,kiểu dáng kiến trúc độc đáo.Tầng dưói chỉ là bốn trụ gạch,bốn bề trống không.Tầng trên là kiến trúc gỗ từ mái,lớp và phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất nung hoặc cát vôi.Bốn cạnh sàn gỗ có diềm trạm trổ tinh vi,bốn góc sàn làm lan can con trên cùng bằng gỗ,bốn mặt tường bịt ván gỗ ,mỗi mặt đều làm một cửa tròn có những thanh gỗ chống toả ra 4 phía.
Các cửa sổ tròn trong khung gỗ vuông nói lên quan niệm trời tròn-đất vuông âm dương hoà hợp cùa người xưa,của và những thanh gỗ chống tượng trưng cho sức khoẻ.
Khuê văn theo cách lí giải về thiên thể ,khuê là một ngôi sao trong chòm 28 sao,là đầu Bạch Hổ phương tây có 16 ngôi sắp xếp khúc khửu giống hình chữ văn.chính vì vậy sao khuê được coi là sao chủ về văn học.Khuê Văn Các là biều tượng cho thu đô Hà Nội,biểu tượng của trí thức,biểu tượng cho thủ đô ngàn năm văn hiến.
Cạnh Khuê Văn Các là giếng Thiên Quang đầy nước trong xanh in hình Khuê Văn Các.Gác Khuê Văn xứng đáng với lời bình là một viên ngọc trong khu di tích Văn miếu-Quốc Tử Giám.Hai bên Khuê Văn Các là hai cửa Bí Văn (văn đẹp đẽ,trau truốt,sang sủa)và súc văn(văn hàm ý ,súc tích có sức truyền cảm thuyết phục con người).
Sau đây xin mời các bạn đến với giếng Thiên Quang hay còn gọi là Văn Trì tức Ao Vua.Thiên Quang có nghĩa là giếng trời trong sáng .Đặt tên này cho giếng ý muốn nói con người thu nhận được tinh tuý của vũ trụ ,soi sáng trí thức ,nâng cao phẩm chất ,tô đẹp nền nhân văn.Giếng có hình dáng rất đặc biệt:hình vuông,quanh bờ có hành lang bao quanh .Kiến trúc này được xây dựng theo quan niệm của người xưa :giếng hình vuông tượng trưng cho đất,cửa tròn gác văn khuê tượng trưng cho trời.Như vậy ,tinh hoa của cả đất và trời được tập trung ở trung tâm văn hoá giáo dục lớn nhất cả nước tại kinh đô Thăng Long.
Mời các bạn nhìn sang hai bên giếng Thiên Quang,đó chính là khu nhà bia,một di yích có giá trị bậc nhất tại Văn Miếu –Quốc Tử Giám.Khu nhà bia gồm 82 tấm bia chiến sĩ được chia đều sang 2 bên giếng Thiên Quang.trên bia có khắc rõ tên và quê quán của 1307 vị tiến sĩ.
Ý tưởng dựng bia được khởi sự từ đời Vua Lê Thánh Tông (1484)và các đời vua kế tiếp cho khắc tên các vị danh nhân lên bia nhằn biểu dưong các vi tiến sĩ đỗ đạt và khích lệ tinh thần hoc hành thi cử.o mỗi bên khu nhà bia dều có một toà đình vuông,với 4 mặt trống không,bên trong thờ bia,nên còn được gọi là Bi Đình.Xưa kia jhằng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cung sắp lễ vật cúng bái các vị tiên nho mà vẫn được khắc tên trên bia đá đến bây giờ.82 tấm bia tiến sĩ là 82 phong cách điêu khắc ,tuy kích thước khác nhau nhưng bia nào cũng được dựng trên lưng một con rùa,đầu ngẩng cao,4 chân xoài ra trong tư thế đang bò lên.
Như các bạn đang thấy,bia gồm 3 phần là trán bia,than bia và đế bia.
Trán bia có hình khum vòm,vơí các hoạ tiết lưỡng long chầu mạn nguyệt.
Thân bia:đây là phần quan trọng nhất của bia,nhần trên cùng sát với trán bia khắc niên đại tổ chức khoa thi.Bnê dưới là bài kí khắc theo chiều dọc của bia,đọc từ trên xuống dưới từ phải sang trái,với nội dung ca ngợi triều vua đang trị vì.tiếp theo là năm tổ chức khoa thi,số lượng thí sinh thi,số lượng người lấy đỗ,tên tuổi quê quán của người viết văn bia và người khắc bia.phnầ quan trọng nhất là tên tuổi quê quán của các vị tiến sĩ được sắp xếp từ cao xuống thấp là đệ nhất tiến sĩ,đệ nhị tiến sĩ,đệ tam tiến sĩ.
Có lẽ các bạn đang thắc mắc tại sao lại là rùa phải không ạ?
Vâng ,theo quan niệm của người Việt thì rùa từ xa xưa đã gắn bó với người dân Việt Nam:Đó là thần Kim Quy giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa,rùa là xứ giả của Thuỷ Vươnggiúp Lê Lợi đại phá quân Minh…hơn thế Rùa là một trong tứ linh,bung phặng tượng trưng cho đất mang yếu tố âm,mai khum tượng trưng cho trời mang yếu tố dương tượng trưng cho trời.vì thế rùa hội tụ cả âm và dương.ngoài ra Rùa còn có ý nghĩa là trường tồn và vĩnh cửu.Bia đá đặt trên lưng rùa nhằm khẳng đinh sự trường tồn của trí tuệ của tinh hoa dân tộc việt.
82 tấm bia có ghi 1307 nhân vật trong đó có 17 trạng nguyên,19 bảng nhãn,47 thám hoa,284 hoàng giáp và 938 tiến sĩ.
Người được khắc tên trên bia đầu tiên là ông Nguyễn Trực(1442)người cuối cùng được khắc tên trên bia là Phạm Huy Ôn(1779).người đỗ tiến sĩ cao tuổi nhất là ông Bàn Tử Quang và đỗ khi tuổi mới 13,trẻ nhất là Nguyễn Hiền.Qua văn bia chúng ta vẫn thấy có những vị danh nhân vẫn được lưu truyền như nhà sử học Ngô Sĩ Liên đỗ tiến sĩ năm 1442,nhà ngoại giao lỗi lạc Ngô Thì Nhậm……nhìn vườn bia các bạn có thể thấy nhiều tấm bia với kiến trúc khác nhau bởi chúng được làm trong thời gian khác nhau.
Các bia khắc vào thế kỷ 15 có 14 chiếc ,những tấm khắc vào thế kỷ 17 có 25 chiếc ,những tấm bia loại ba được xây dựng vào thế kỷ 18 .ngoài ra còn có một số bia không thuộc loại nào.Các bạn có thấy những hàng chữ bị xóa trên bia không ạ?đó là o khi triều Nguyễn lên cầm quyền d0 có những mâu thuẫn với triều đình trước đã cho xoá đi.Nếu ta tính từ khoa thi Nhâm Tuất (1442) tới khoa thi Đinh mùi 1789 thì phải có 124 kỳ thi và phải có 117 bia tiến sĩ.Nhưng sau bao chiến tranh thì hiện nay chỉ còn 82 bia.
Vâng tôi và các bạn vừa được tham quan khu nhà bia một niềm tự hào của nền văn hoá việt,và sau đây xin mời các bạn tiếp tục đến với khu vực thứ tư của văn miếu đó là Đại Trung Môn và Nhà Đại Bái.
Đại Trung Môn là khu vực chính thờ Khổng Tử và các bậc hiền triết bao gồm Đại Thành,nhà Đại Bái và hai dãy Đông Vu ,Tây Vu.
Cửa Đại Thành 3 giam 2 cột hiên trước và sau giống như cửa Đại Trung một hang giữa đỡ xà nóc,ba gian đều được lắp của gỗ sơn đỏ trên có hoạ tiết rồng,mây.Gian giữa đề ba chữ :Đại Thành Môn.Cửa Đại Thành là cửa của sự thành đạtlớn lao mở đầu cho khu vực của những kiến trúc chính mang một cái tên đấy ý nghĩa về học vấn,đạo đức.Hai bên cổng đại thành có 2 cửa phụ :kim thanh ở phía đông và ngọc chấn ở phía tây.đây là 2 lối vào sân đại bái và điện đại thành ,bởi ở đây trước kia chỉ tế Khổng Tử thì cổng đại thành mới mở.chúng ta đang đứng trên sân đại bái,trước mặt là toà đại bái và điện đại thành,2 bên là dãy nhà đông vu và tây vu.hai dãy nhà này đều gồm 9 gian.Trước đây 2 bên đều xây 5 bệ,trên có 5 khám bài thờ Thất Thập nhị hiền –đều là học trò của Khổng Tử.Kiến trúc cũ đã bị phá vỡ vào năm 1946,kiến trúc hiện nay đã được xây dựng lại năm 1954.Hiện nay ở đây trưng bày phòng tranh và bán đồ lưu niệm.Toà Bái Đường là nơi tổ chức các nghi thức tế lễ ,do vậy ở chính giữa đặt một hương án trên bày đồ thờ .Hai bên hương án có 2 con hạc đứng trên lưng rùa.hạc là biểu hiện cho sự tinh tuý, thanh cao.Hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện cho sự hài hoà giữa trời và đất,giữa hai cực âm dương.hình ảnh hạc đứng trên lưng rùa còn thể hiện long thuỷ chung,biết tương trợ giúp đỡ nhau cùa những người bạn tốt khi gặp khó khăn.phía trên hương án có bức hoành phi :”Vạn Thế Sư Biểu”-người thầy tiêu biểu của muôn đời.4 chữ này do vua Khang Hy tặng cho Khổng Tử.và ở gian đầu hồi phía đông còn bức hoành phi “cổ kim nhật nguyệt” và chuông bích ung đều cửa tư nghiệp Quốc Tử Giám quận công Nguyễn Nghiễm là cha của Nguyễn Du làm 1768.bây giờ chúng ta tiếp tục đến với Điện Đại Thành.
Điện Đại Thành là nơi thờ Khổng Tử ,Tứ Phối và Thập Triết.
Gian chính là nơi thờ Khổng Tử .Khổng Tử (551-479TCN) là một nhà tư tưởng ,nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Quốc.Ông sinh tai ấp Trâu,làng Xương Bình ,nước Lỗ(nay là huyện Khúc Phụ,Sơn Đông,Trung Quốc.Khổng Tử là người sáng lập ra đạo nho ở Trung Quốc.chủ yếu dạy về đạo làm người.Trong khi Đức Khổng Tử được người đời tôn là Vạn Thế Sư Biểu thì Tứ Phối là các học trò của ông lại được phối hợp thờ tại các Văn Miếu ở Trung Quốc và Việt Nam.Họ là Nhan Hồi ,Tăng Sâm,Tử TưVà Mạnh Tử.
Theo cánh tay tôi,các bạn đang nhìn thấy tượng thờ Nhan Tử.là học trò giỏi nhất của Đức Khổng Tử ,đúng đầu trong khoa đức hạnh của của Khổng.Được người đời xưng tụng là Phục Thánh Nhan Tử.
Cạnh là Thuật Thánh Tử Tư(cháu nội của Khổng Tử).Tử tư không theo học trực tiếp với ông nội mà theo hoc Tăng Tử-một học trò cùa Khổng Tử.Tử Tư tạo nên một phái lớn trong Nho Giáo là phái tử tư.
Đối diện là tượng thờ Tông Thánh Tăng Tử và Á Thánh Mạnh Tử.
Là học trò duy nhất hiểu được đạo Nhất quán của Khổng Tử và viết nên sách Luận Ngữ.Tăng Tử cũng được đời sau tôn lên làm gương hiếu thứ 3 trong nhị thập tứ hiếu.
Mạnh Tử là học trò của Tử Tư.Ông là người soạn sách mạnh tử và lập ra thuyết tánh thiện(nhân chi sơ tánh bổn thiện).Nhười ta tôn Mạnh từ là bav65 thánh đúng hang thứ nhì dưói Khổng Tử.
Hai gian đầu hồi là 10 bia đá bài vị Thập Triết,là nhũng người tiêu biểu cho 4 khoa:Đức hạnh,ngôn ngữ,chính trị,văn học.
Sau đây xin mời các bạn đến tham quan khu nhà thái học.Nhà Thái Học với diện tích 1530m2,gồm các công trình kiến trúc chính là tiền đường,hậu đường,tả vu,hữu vu,nhà chuông và nhà trống.
Nhà tiền đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học,là nơi tổ chức các hội nghị,hội thảo khoa học,văn hoá,nghệ thuật dân tộc.
Hậu đường là nơi thờ Chu Văn An-một ngưòi thầy đức cao vọng trọng.ông đỗ thái học sinh đời Trần nhưng không lên làm quan mà về quê dạy học,ông đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước.Dưới triều Trần Minh Tông ông được mời ra dạy học cho thái tử Trần Vượng.đến triều vua Trần Dụ Tông,gian thần lộng hành.bị từ chối Thất Trảm sớ.Ông đã từ quan về ở ẩn tại ní phượng hoàng(chí linh,hải dương).ông mấy năm 78 tuổi,được truy tặng tước Văn Trinh Công,ban tên thuỵ là Khang Tiết và cho thờ ở Văn Miếu.
Theo tay tôi là 2 mô hình Văn Miếu-Quốc Tử Giám xưa và nay.
Văn Miếu ngày xưa có diên tích rộng,bao gồm toàn bộ khu vực của bệnh viện Sanh pôn và bảo tang mỹ thuật hiện nay và cả khu hồ văn rộng lớn.
Mời các bạn đến xem mô hình văn miếu-quốc tử giám.cùng với sự phát triển của đất nước thì khu vực này đã bị thu hẹp.Hiện nay diên tích của văn miếu-quốc tử giám chỉ còn 54331m2.còn kiến trúc được giữ lại trên nền đất nhà thái học gồm 2 tầng tầng 1 thờ Chu Văn An.Tầng 2 là nơi thờ 3 vị vua có công trong việc tu sủa và xây dựng văn miếu quốc tử giám là lý thánh tông,lý nhân tông và lê thánh tông.Quốc Tử Giám là trường đại học đầu tiên của nước ta.Trước đây chỉ có các vị Thái tử được học sau đó mở rộng quy mô hơn .Thời gian học tập là 3 năm, các thi sinh phỉa trải qua 3 cuộc thi :hương,hội,đình.
Xin mời các bạn đến với tầng 2 của nhà thái học.
ở gian chính giửa thờ vua Lý Thánh Tông,sinh năm 1023,ở ngôi được 17 năm,thọ 50 tuổi .ông là người đổi tên nước ta từ Đại cồ việt sang Đại việt.
Bên tay phải các bạn là bàn thờ Lý Nhân Tông.Ngài là người học trò đầu tiên của quốc tử giám(khi ông chỉ mới lên 5).lý nhân tông sinh năm 1066,mat năm 63 tuổi.ông ở ngôi được rất lâu(56 năm).năm 1076 ông đã cho phép triều đình lập ra quốc tử giám và cho chon những hiền tài vào đào tạo ,phục vụ cho đất nước.
Bên tay trái các bạn là tưọng thờ vua Lê Thánh Tông.Ông la 2người kế thừa và nâng cao tầm vóc của quốc từ giám.ông lên ngôi được 38 năm.được người đời đánh giá là minh mẫn,sáng suốt,thâm tuý về văn,giỏi giang về võ…
Ba vị vua là tinh hoa của thời kỳ phong kiến việt nam khi biết lấy sự học làm cái gốc cho sự nghiệp dựng nứơc và giữ nước.
Vâng thưa các bạn .vậy là tầng 2 của nhà thái học đã kết thúc buổi tham quan di tích văn miếu-quốc tử giám của chúng ta ngày hôm nay.
Tôi và các bạn đã cùng nhau đến với những giá trị nhân văn ý nghĩa,độc đáo.truyền thống hiếu học của dân tộc việt ta.đặc biệt là 82 tấm bia tiến sĩ,niềm tự hào của tinh hoa trí tuệ việt nam.
Qua buổi tham quan này các bạn đã có được những kiến thức về nền giáo dục việt nam.dồng thời nâng cao niềm tự hào của nòi giống tiên dòng.
Vâng,và trước khi kết thúc buổi tham quan xin hỏi có bạn nào có thắc mắc gì không.hướng dẫn viên sẽ giải thích trong tầm hiểu biết.
Nếu không có bạn nào đặt câu hỏi,tôi xin kết thúc buổi tham quan tịa đây.chúc các bạn có sức khoẻ dồi dào và những kiến thức bổ ích cho công việc học tập của minh
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng, phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám, mà kiến trúc chủ thể là Văn miếu (chữ Hán: 文廟) - nơi thờ Khổng Tử, và Quốc tử giám (chữ Hán: 國子監) - trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám có tường gạch vồ bao quanh, phía trong chia thành 5 lớp không gian với các kiến trúc khác nhau. Mỗi lớp không gian đó được giới hạn bởi các tường gạch có 3 cửa để thông với nhau (gồm cửa chính giữa và hai cửa phụ hai bên). Từ ngoài vào trong có các cổng lần lượt là: cổng Văn Miếu, Đại Trung, Khuê Văn các, Đại Thành và cổng Thái Học.[1] Với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu – Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến "cầu may" trước mỗi kỳ thi quan trọng.
Văn miếu được xây dựng từ năm 1070, tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tập 1, tr.234 chép: "Mùa thu tháng 10, làm Văn Miếu, đắp tượng, Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học." [2] Như vậy Văn miếu ngoài chức năng thờ các bậc Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho, còn mang chức năng của một trường học Hoàng gia mà học trò đầu tiên là Thái tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông với Nguyên phi Ỷ Lan, lúc đó mới 5 tuổi, đến năm 1072 lên ngôi trở thành vua Lý Nhân Tông.
Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử giám ở bên cạnh Văn miếu, có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc tử). (Việt sử thông giám cương mục. Nxb. Văn sử địa. 1957) chép: "Bính Thìn, năm Anh Vũ Chiêu Thắng thứ 1 tháng 4... lập nhà Quốc tử giám; tuyển trong các văn thần lấy những người có văn học, bổ vào đó". Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn miếu và chỉ thờ Khổng Tử.
Năm 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử giám thành Quốc Học viện cho mở rộng và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Chức năng trường Quốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng của một nơi tế lễ "Quý Sửu năm thứ ba (1253)... Tháng 6 lập Quốc Học viện, tô tượng Khổng Tử, Chu công và Á Thánh, vẽ tượng 72 người hiền để thờ... Tháng 9 xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước đến Quốc học viện giảng học tứ thư, lục kinh" (ĐVSKTT). Lấy Phạm Ứng Thần giữ chức Thượng thư kiêm chức Đề điệu Quốc Tử viện để trông nom công việc học tập tại Quốc Tử giám".
Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn miếu bên cạnh Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia của những người thi đỗ Tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi (chủ trương đã đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiện được). Mỗi khoa, một tấm bia đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12 khoa thi cao cấp, Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã tổ chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng 12 khoa thi.
Không phải khoa thi nào tiến hành xong đều được khắc bia ngay, không phải bia đã dựng thì trường tồn, không hư hỏng, không mất mát. Từng thời có những đợt dựng, dựng lại lớn, như năm 1653 (Thịnh Đức năm thứ nhất), năm 1717 (Vĩnh Thịnh năm thứ 13).
Cuối triều Lê, thời Cảnh Hưng, bia vẫn được khắc đều đặn. Dù không còn giữ được đủ bia, nhà công trình điêu khắc giá trị và tư liệu lịch sử quý báu.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử giám, cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Vào thời Cảnh Hưng, Vũ Miên, Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Lệ cho đúc Bích Ung đại chung (chuông lớn Bích Ung).
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn miếu Hà Nội. Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây thêm Khuê Văn các bên cạnh giếng vuông. Như vậy vào đầu thời Nguyễn, Văn miếu Thăng Long đã một lần được sửa sang chỉ còn là Văn miếu của trấn Bắc Thành, sau đổi thành Văn Miếu Hà Nội. Còn Quốc Tử giám thì đổi thành học đường của phủ Hoài Đức và sau đó tại khu vực này xây đền Khải Thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử.
Đầu năm 1947, thực dân Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay toàn bộ khu Thái Học được xây dựng với diện tích 1530m2 trên tổng diện tích 6150m2 gồm các công trình kiến trúc chính là Tiền đường, Hậu đường, Tả vu, Hữu vu, nhà chuông, nhà trống được mô phỏng theo kiến trúc truyền thống trên nền đất xưa của Quốc Tử giám.
Quốc Tử giám nằm ở phía Nam thành Thăng Long, xưa thuộc thôn Minh Giám, tổng Hữu Nghiêm, huyện Thọ Xương; thời Pháp thuộc cũng như nay thuộc khu vực trung tâm nội thành của thành phố Hà Nội. Bốn mặt đều là phố, cổng chính là phố Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây là phố Tôn Đức Thắng, phía Đông là phố Văn Miếu. Quần thể kiến trúc này nằm trên diện tích 54331m2 bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám mà kiến trúc chủ thể là Văn Miếu nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám, trường học cao cấp đầu tiên của Việt Nam từ xưa đến bây giờ
Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc cung đình thời đầu nhà Nguyễn. Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch vồ (đây là sản phẩm của nhà Hậu Lê)
Phía nam, trước mặt Văn Miếu là hồ Minh Đường hay Văn hồ, dân gian thường gọi là hồ Giám. Chính quyền thành phố Hà Nội đã cố gắng giải toả, nhưng hiện nay diện tích cũng chỉ còn được 12297 m2, giữa hồ có gò Kim Châu, trên gò dựng Phán Thủy đường (là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa). Theo ý đồ kiến trúc, đây vốn là cái "tiểu minh đường" của Văn Miếu, là một bộ phận khăng khít của toàn bộ công trình kiến trúc chung. Năm 1863, trong dịp sửa nhà bia Văn Miếu, Văn Hồ đã được một lần tu sửa. Sự việc này còn ghi lại rõ ràng trên tấm bia đá dựng ở gò giữa hồ: Trước miếu có hồ lớn, trong hồ có gò Kim Châu, vào khoảng niên hiệu Cảnh Trị (1668-1671), Tham tụng họ Phạm (Phạm Công Trứ) làm 10 bài thơ vịnh Phán thủy để ghi lại cảnh đẹp... Mùa thu năm Quý Hợi niên hiệu Tự Đức (1863) tôi [6] cùng Cao đài Đặng Lương Phủ (Đặng Tá) dựng đình bia Tiến sĩ và sửa sang khu hồ... Mùa thu năm Ất Sửu (1865), Đặng sứ quân lại xuất tiền nhà xây một đình trên gò Kim Châu. Đình làm xong gọi là Văn Hồ đình.... .
Ngày 12 tháng 2 năm 1998, trong khi nạo vét cải tạo hồ Văn đã tìm thấy tấm bia Hoàn Văn hồ bi, soạn năm Bảo Đại thứ 17 (1942), do cử nhân khoa Quý Mão Hoàng Huân Trung [7] soạn. Điều đặc biệt là mặt sau của bia khắc bản dịch chữ Hán ra chữ Quốc ngữ do đốc học Trần Trọng Kim và Nguyễn Quang Oánh dịch. Cho biết hồ này và cả dải đất chạy suốt chiều dài mé tây của Văn Miếu đều thuộc quần thể khu vực Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Đến cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 20 do phân cách địa giới hành chính, khu vực Văn miếu thuộc đất tỉnh Hà Đông. Khi đất Văn Miếu – Quốc Tử Giám trao lại cho tỉnh Hà Nội thì bỏ sót lại khu hồ Văn, vì thế năm 1939 các văn thân nho sĩ tỉnh Hà Nội đệ đơn trình Thị trưởng Hà Nội xin Công sứ toàn quyền Bắc Kỳ trả lại hồ Văn vào địa phận Văn Miếu, văn bia có đoạn viết: Hồ này ở ngoài tường cửa thứ ba Văn Miếu tên là hồ Minh Đường hay là Văn hồ. Hồ rộng 1 vạn chín trăm thước vuông tây, trong hồ có gò tròn tên gọi Kim Châu rộng hai trăm thước vuông tây.
Một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát, một gò đất nổi giữa hồ trên có một kiến trúc nhỏ đẹp lẩn dưới cành lá xum xuê, cảnh này mở đầu cho một khu kiến trúc sẽ trở thành một tấm gương soi, nhân đôi cảnh trí, tạo cảm giác mát mẻ dịu dàng ngay từ khi mới đặt chân vào khu kiến trúc.[8]
Phía trước Văn Miếu môn là tứ trụ (nghi môn) và hai tấm bia Hạ mã hai bên đó là mốc ranh giới chiều ngang phía trước mặt cổng. Xưa kia dù công hầu hay khanh tướng, dù võng lọng hay ngựa xe hễ đi qua Văn Miếu đều phải xuống đi bộ ít nhất từ tấm bia Hạ mã bên này sang tới tấm bia Hạ mã bên kia mới lại được lên xe lên ngựa. Thế đủ biết Văn Miếu có vị trí tôn nghiêm tới chừng nào. Tứ trụ được xây bằng gạch, hai trụ giữa xây cao hơn trên có hình 2 con nghê chầu vào. Quan niệm tâm linh cho rằng đây là vật linh thiêng có khả năng nhận ra kẻ ác hay người thiện. Hai trụ ngoài đắp nổi 4 con chim phượng xoè cánh chắp đuôi vào nhau. Tứ trụ có đôi câu đối chữ Hán:
Văn Miếu môn tức là cổng tam quan phía ngoài. Cổng có ba cửa, cửa giữa cao to và xây 2 tầng. Tầng trên có ba chữ 文廟門 (Văn miếu môn). Kiểu dáng kiến trúc Văn Miếu môn nhiều nét độc đáo rất đáng lưu ý trong khi nghiên cứu kiến trúc cổ Việt Nam. Nhìn bên ngoài tam quan là 3 kiến trúc riêng biệt. Cửa chính giữa thực chất xây 2 tầng. Mặt bằng hình vuông. Tầng dưới to, tầng trên nhỏ chồng lên giữa tầng dưới. Ngày 18 tháng 3 năm Khải Định thứ 3, vua Khải Định bắc tuần có đến chiêm bái Văn Miếu Hà Nội và làm hai bài thơ tứ tuyệt bằng chữ Hán, rồi phán cho tỉnh thần Hà Đông khắc vào bia dựng trên gác tam quan (rất tiếc bia hiện nay không còn, chỉ còn lại bệ bia, hai mặt bệ là hình hổ phù rất đẹp). Nguyên văn hai bài thơ như sau:
Phía trước cổng tam quan là đôi rồng đá cách điệu thời Lê, bên trong là đôi rồng đá thời Nguyễn. Hai mặt cổng tam quan Phía ngoài có hai câu đối nề (không rõ niên đại)
Từ cổng chính Văn Miếu môn, vào không gian thứ nhất gọi là khu Nhập đạo, theo đường thẳng tới cổng thứ hai là Đại Trung môn. Ngang hàng với Đại Trung môn bên trái có Thành Đức môn, bên phải có Đạt Tài môn. Theo văn bản của ông Đỗ Văn Ninh trước đây hai cổng tả môn và hữu môn ở phía trước và bằng Đại Trung môn, Thánh Đức môn và Đại tài môn ở phía sau. Hiện nay hai bên là không gian cây xanh và thảm cỏ Bức tường ngang nối ba cửa vươn dài ra hai bên tới tận tường vây dọc bên ngoài. Hai bên tả hữu của cả khu Văn Miếu, cùng với tường ngang nơi Văn Miếu môn tạo thành một khu hình gần vuông có tường vây khép kín ra vào bằng Văn Miếu môn. Trong khu vực này trồng cây bóng mát gần kín mặt bằng. Hai chiếc hồ chữ nhật nằm dài sát theo chiều dọc bên ngoài. Cảnh này gây nên cảm giác tĩnh mịch, thanh nhã của nơi "văn vật sở đô". Cửa Đại Trung môn làm kiểu 3 gian, xây trên nền gạch cao, có mái lợp ngói mũi hài, có hai hàng cột hiên trước và sau, ở giữa là hàng cột chống nóc. Gian giữa cổng treo một tấm biển nhỏ đề 3 chữ sơn then Đại Trung môn.
Con đường thẳng từ Văn Miếu môn tới Đại Trung môn lại vươn tiếp thẳng tới Khuê Văn Các. Từ hai cửa Đạt Tài và Thành Đức ở hai bên cửa Đại Trung, hai con đường nhỏ hơn song song chạy thẳng với con đường trục giữa, chia khu vực thứ hai này thành 4 dải khá cân bằng. Hai hồ nước được đào ở vị trí tương tự như hai hồ nước ở khu vực thứ nhất. Việc lặp lại một khu vực chỉ có cây có cỏ, việc làm thêm dãy tường ngăn và làm thêm lớp cửa ra vào, được các nhà kiến trúc cho là rất thành công trong ý đồ tạo nên cảnh thâm nghiêm, tĩnh mịch của khu vực kiến trúc.
Khuê Văn các (nghĩa là "gác vẻ đẹp của sao Khuê") là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước, do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành triều Nguyễn đương thời cho xây dựng vào năm 1805. Gác dựng trên một nền vuông cao cân xứng có lát gạch Bát Tràng mỗi bề có chiều dài là 6,8 mét. Để bước lên được nền vuông này phài đi qua ba bậc thang đá. Kiểu dáng kiến trúc Khuê Văn Các rất hài hòa và độc đáo. Tầng dưới là 4 trụ gạch vuông, mỗi cạnh của trụ có chiều dài một mét và trên các mặt trụ đều có chạm trổ các hoa văn rất tinh vi và sắc sảo. Tầng trên là kiến trúc gỗ sơn son thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất nung hoặc vôi cát có độ bền cao.
Sàn gỗ có chừa 2 khoảng trống để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn có diềm gỗ chạm trổ tinh vi. Bốn góc sàn làm lan can con tiện cũng bằng gỗ. Bốn mặt tường bịt ván gỗ, mỗi mặt đều làm một cửa tròn có những thanh gỗ chống tỏa ra bốn phía. Cửa và những thanh gỗ chống tượng trưng cho sao Khuê và những tia sáng của sao [9]. Mé trên sát mái phía cửa ngoài vào treo một biển sơn son thiếp vàng 3 chữ 奎文閣 (Khuê văn các). Mỗi mặt tường gỗ đều chạm một đôi câu đối chữ Hán thiếp vàng. Cả bốn đôi câu đối này đều rất có ý nghĩa
Gác Khuê Văn vốn là nơi xưa kia dùng để họp bình những bài văn hay của các sĩ tử đã thi trúng khoa thi hội. Gác nhỏ, kiến trúc giản dị nhưng tao nhã, đặc biệt lại được chọn dựng giữa những cây cổ thụ xanh tốt, cạnh giếng Thiên Quang đầy nước trong in bóng gác.
Phân tích. Theo Kinh dịch những con số lẻ (1, 3, 5, 7, 9) thuộc về dương, biểu hiện sự sinh sôi nảy nở và phát triển, Khuê văn các có 8 mái là bát quái, có thêm 1 nóc ở trên là 9, số cửu trù, số cực dương.[10] Theo quan niệm của người xưa, giếng Thiên quang hình vuông tượng trưng cho mặt đất, cửa sổ hình tròn của gác Khuê văn tượng trưng cho bầu trời, có ý nói nơi đây là nơi tập trung mọi tinh hoa của trời đất, có ý tưởng đề cao trung tâm giáo dục văn hoá Nho học Việt Nam.[11] Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội.
Hai cửa này cùng với gác Khuê Văn đồng thời mở đầu cho khu vực thứ hai, khu vực giếng Thiên Quang và hai vườn bia Tiến sĩ.[1]
Thiên Quang tỉnh (tức "giếng soi ánh sáng bầu trời") còn được gọi là Văn Trì (ao Văn). Thiên Quang nghĩa là ánh sáng bầu trời. Đặt tên này cho giếng, người xây dựng có ý muốn nói con người thu nhận được tinh túy của vũ trụ, soi sáng tri thức, nâng cao phẩm chất, tô đẹp nền nhân văn. Giếng hình vuông, quanh bờ đều xây hàng lang trưng cho đất, cửa tròn gác Khuê Văn tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả trời cả đất đều được tập trung ở trung tâm văn hóa giáo dục uy nghiêm giữa chốn đế đô này. Một con đường nhỏ lát gạch bao quanh giếng cho phép người ta có thể dạo quanh giếng, lên gác Khuê Văn, vào cửa Đại Thành hoặc rẽ sang 2 vườn bia đá ở 2 bên.
Nhưng có lẽ di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ dựng ở hai bên phải trái của giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2 hàng ngang, mặt bia đều quay về phía giếng. Cả hai bên, giữa mỗi vườn bia xây một tòa đình vuông, 4 mặt bỏ trống, nền cao, giữa nền có bệ, cửa đều trông thẳng xuống giếng. Đây là hai tòa đình thờ bia. Xưa kia hàng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà quý tính cao danh còn khắc trên bia đá. Trong 82 tấm bia còn lại tới ngày nay, tấm sớm nhất dựng vào năm 1484, khắc tên các vị tiến sĩ đỗ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442) tấm cuối cùng dựng vào năm 1780, khắc tên các Tiến sĩ đỗ khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 40 (1779). Từ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 tới khoa cuối cùng là khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống năm thứ nhất 1787 tính cho đủ phải tới 124 khoa thi đình, nếu chỉ kể các khoa thi Tiến sĩ, không kể các khoa Đông Các và Chế khoa thì cũng phải 117 khoa, vậy nếu theo đúng điển lệ triều Hậu Lê thì phải lập đủ 117 tấm bia đề tên Tiến sĩ. Thế nhưng trải qua bao cơn binh lửa, vật đổi sao dời, số bia chỉ còn là 82 tấm. Nhiều tấm bia nọ lắp vào rùa kia, nhiều tấm nứt vỡ phải gắn chắp lại.
Khi quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long đã làm hư hại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Nông dân trại Văn Chương xin Nguyễn Huệ dựng lại bia đề tên Tiến sĩ trong nhà Giám viết rằng:
Tháng 4 năm 1976 Viện Khảo cổ học phối hợp với phòng Bảo tồn bảo tàng, Sở Văn hóa Thông tin thành phố Hà Nội đã khai quật được một con rùa đá đế bia chìm sâu dưới lòng hồ cạnh Khuê Văn Các. Thân bia chưa thấy, song sự việc này đã nâng số bia Tiến sĩ lên con số 83. Những năm thực dân Pháp xâm lược rồi tạm chiếm Hà Nội, 2 vườn bia có lúc hoang vắng, cỏ cao lút đầu.[13] Hiện nay 2 vườn bia đã được tu sửa lại theo mẫu sửa nhà bia cuối cùng vào niên hiệu Tự Đức năm thứ 16 (1863), do Bố chính Hà Nội là Lê Hữu Thanh cùng với thự Hậu quân Đô thống, Tổng đốc Hà Ninh là Tôn Thất Hân và Án sát Hà Nội là Đặng Tá khởi xướng làm 2 nhà bia mỗi nhà 11 gian để che mưa nắng cho các di vật quý giá này. Nội dung được ghi rõ trong 2 tấm bia dựng ở bên trái sân Đền Khải Thánh - Quốc Tử Giám (xem phần trích trong mục Đền Khải Thánh - Quốc Tử Giám)
Qua cửa Đại Thành là vào không gian thứ ba, khu vực chính của di tích Quốc Tử Giám - Văn Miếu. Cũng như cửa Đại Trung, cửa Đại Thành là một kiến trúc 3 gian với hai hàng cột hiên trước sau và một hàng cột giữa. Chính giữa, trên giáp nóc có treo một bức hoành khắc 3 chữ 大成門 (Đại thành môn) theo chiều ngang, đọc từ phải sang trái. Bên phải hai hàng chữ nhỏ dọc khắc Lý Thánh Tông, Thần Vũ nhị niên, Canh Tuất thu, bát nguyệt phụng kiến có nghĩa là: "Tháng 8 mùa thu năm Canh Tuất, niên hiệu Thần Vũ năm thứ 2 đời Lý Thánh Tông vâng sắc xây dựng" [14]. Bên trái một hàng chữ dọc khắc: Đồng Kháng tam niên, Mậu Tý trọng đông đại tu có nghĩa là "Tháng 11 năm Mậu Tý niên hiệu Đồng Khánh năm thứ 3 đại tu".[15] Bức hoành sơn thiếp giản dị, là sản phẩm của năm 1888, song nó là minh chứng cho một lần tu sửa lớn vào thời Đồng Khánh nhà Nguyễn, và cũng là một bằng cứ gián tiếp cho năm khởi dựng Văn Miếu vào thời vua Lý Thánh Tông.
Cửa Đại Thành (cửa của sự thành đạt lớn lao), mở đầu cho khu vực của những kiến trúc chính, nơi thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ phối, Thất thập nhị hiền v.v... và cũng là nơi giảng dạy của trường giám thời xưa, mang một cái tên đầy ý nghĩa tưởng không còn có thể chọn một tên nào có ý nghĩa hay hơn.
Hai cửa nhỏ theo văn bản của ông Đỗ Văn Ninh là Kim Thành bên phải và Ngọc Thành bên trái, hiện nay là Kim Thanh môn và Ngọc Chấn môn nằm ngang với cửa Đại Thành, song 2 cửa này không mở vào thẳng khu vực chính, mà để đi qua con đường lát gạch phía sau 2 dãy Tả Vu và Hữu Vu để tiếp tục qua sang khu Khải Thánh phía cuối cùng của di tích.
Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng mênh mông lát gạch Bát Tràng. Hai bên phải trái của sân là 2 dãy Hữu Vu và Tả Vu. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn và thâm nghiêm trải suốt chiều rộng của sân nối giáp với đầu hồi của Tả Vu, Hữu Vu 2 bên, tạo thành cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và thuyền thống. Sau Đại Bái Đường, song song với Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện, có quy mô tương tự cả về chiều cao lẫn bề rộng. Đại Bái Đường nối với Thượng Điện bằng một Tiểu Đình hình vuông. Nếu tách riêng cụm 3 kiến trúc này ra mà nói thì chúng được xây dựng theo hình chữ công mà Tiểu đình chính là nét sổ giữa và Đại Bái Đường, Thượng Điện là 2 nét ngang trên và dưới.
Thượng Điện ở phía sau 9 gian, tường xây 3 phía, phía trước có cửa bức màn đóng kín 5 gian giữa, 4 gian đầu hồi có cửa chấn song cố định. Nhìn chung Thượng Điện kín đáo và do đó cũng tối hơn Đại Bái, đó cũng là ý đồ của công trình sư muốn tạo cho nơi đây một không khí thâm nghiêm, u tịch và họ đã thành công mỹ mãn. Nơi đây là nơi thờ những vị tổ đạo Nho. Gian chính giữa có cái khám và ngai lớn để trên một bệ xây, trong có bài vị Chí thánh tiên sư Khổng Tử. Cách 2 gian 2 bên tới những gian khác cũng có bệ xây và cũng có khám, trong khám có ngai và bài vị. Bên trái có 2 ngai thờ Tăng Tử và Mạnh Tử; bên phải có 2 ngai thờ Nhan Tử và Tử Tư. Bốn vị được thờ trên đây tức là Tứ phối được quy định thờ từ ngày mới xây dựng Văn Miếu. Ngoài bài vị ra cả 4 vị đều có tượng gỗ sơn thiếp rất uy nghi.
Hai gian đầu hồi cũng có 2 khám lớn xếp chầu vào gian giữa, thờ Thập triết gồm những vị: Mẫn Tử, Nhiễm Tử, Đoan Mộc Tử, Trọng Tử, Bốc Tử, Hữu Tử, Tể Tử, Ngôn Tử, Chuyên Tôn Tử, Chu Tử.
Tòa Đại Bái bên ngoài cũng xây 9 gian, nhưng chỉ xây 2 tường hồi còn mặt trước mặt sau để trống. Tòa Đại Bái này có chức năng hành lễ trong những kỳ tế tự xuân thu. Chỉ gian chính giữa có hương án thờ còn các gian khác đều bỏ trống. Tại đây treo khá nhiều hoành phi câu đối. Bức hoành gian giữa khắc 4 chữ Khang Hi ngự thư và Đồng Khánh Mậu Tý trọng đông thuận đề (1888)
Cũng như Thượng Điện, Đại Bái đường mang đậm phong cách kiến trúc thời Hậu Lê, kẻ bảy giản đơn không chạm trổ cầu kỳ, chồng đấu làm theo kiểu đấu đỡ cột chồng rất Việt Nam, khác hẳn với phong cách kiến trúc đồng thời của những công trình ở các nước láng giềng.
Khu Khải Thánh là khu sau cùng của di tích. Từ Văn Miếu sang đến Khải Thánh người ta có thể đi theo 2 con đường lát gạch phía sau Tả Vu và Hữu Vu, hoặc cũng có thể từ sau lưng Thượng Điện qua cửa tam quan. Cửa này là cửa chính cũng xây 3 gian, có mái lợp và cánh cửa đóng mở. Từ bên ngoài vào đền Khải Thánh cũng có thể qua một cổng nhỏ có cánh mở ở góc Đông Nam nơi tiếp giáp với bức tường ngăn 2 khu Văn Miếu và Khải Thánh.
Đền Khải Thánh là nơi thờ cha mẹ Khổng Tử tức là Thúc Lương Hột [zh] và Nhan Trưng Tại [zh]. Phần nửa diện tích của khu này là sân phía trước. Sân bị con đường lát gạch ngăn đôi dẫn từ cửa tam quan lên chính giữa đền thờ. Nửa sân bên trái có 2 tấm bia ghi đại lược như sau: Thăng Long là nơi đô thành cũ; là nhà Thái Học xưa. Hai bên cửa Văn Miếu có dựng bia đề tên Tiến sĩ, bắt đầu từ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo, tới khoa Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng, nay hiện còn 82 tấm, đó chỉ là một số nhỏ. Trong thời gian từ đó tới nay gió táp mưa sa, cỏ lấp rêu phong, có tới hơn 20 tấm chữ khắc bị mòn, lỏng chỏng mỗi nơi mỗi tấm, phần nhiều sứt mẻ không thể đọc được hết. Tôi là Thanh đến làm quan ở đây, vẫn thường muốn làm việc ấy. Mùa thu năm nay, công việc đỡ bận, tôi bàn với quan tổng đốc và quan án sát, bàn cách làm nhà ngói mỗi bên 2 tòa nhà, mỗi tòa 11 gian. Tấm bia nào đổ lỏng chỏng thì đem xếp lại, mặt bia nào bị sứt sở thì đem so sánh mà khắc lại. Cất giữ lấy vết tích xưa vậy... Thật sự 2 tấm bia này cũng là những tư liệu quý.
Kiến trúc đền Khải Thánh sơ sài hơn song cũng có Tả Vu, Hữu Vu 2 bên và đền thờ ở giữa. Đền Khải Thánh xưa vốn là Quốc Tử giám, nơi rèn đúc nhân tài cho nhiều triều đại. Năm 1946 quân Pháp đã bắn đại bác phá hủy sạch không còn lại một kiến trúc nào. Kiến trúc ngày nay là hoàn toàn mới. Toàn bộ mái đều được lợp hai lớp ngói lót, trên là một lớp chì dày 1,5mm rồi đến một lớp ngói lót nữa, và trên cùng là ngói mũi hài. Phần giữa các cột nhà với chân đá tảng cũng đặt một tấm chì dày 1,5mm để chống ẩm từ dưới lên. Nền sân đều được lát gạch bát kích thước 30x30x4cm. Xung quanh nhà đều được bó vỉa bằng đá xanh. Quy mô kiến trúc khu Thái Học mới rất bề thế, trang nghiêm và hài hoà với kiến trúc cảnh quan của khu Văn Miếu phía trước.
Đây là công trình xây dựng hoàn toàn mới do Trung tâm thiết kế tu bổ di tích - Bộ Văn hoá Thông tin thiết kế kỹ thuật, nằm trong công trình trùng tu khu Thái Học khởi công xây dựng ngày 13 tháng 7 năm 1999.
Nhà Tiền đường 9 gian với 40 cột gỗ lim chống mái, đầu hồi xây tường bằng gạch 30x30x7cm mặt ngoài để trần không trát. Gian đầu hồi và gian thứ ba mặt trước, mặt sau đều có cửa bức bàn chấn song con tiện dẫn sang nhà Hậu đường.
Hậu đường là kiến trúc gỗ hai tầng, tầng 1 gồm 9 gian, 2 chái với 72 cột gỗ lim, trong đó 8 cột cái cao 11,5m đường kính 0,56m. Hai đầu hồi xây tường bằng gạch 30x30x7cm mặt ngoài cũng để trần không trát. Phía trước là cửa bức bàn chấn song con tiện, xung quanh là vách đố lụa. Gian đầu hồi mặt sau, gian thứ 3 và gian thứ 7 mặt trước là cửa sổ chấn song con tiện.
Tầng 2 có 5 gian xung quanh là vách đố lụa, mặt trước có 5 cửa và mặt sau có 4 cửa để ra lan can phía trước và sau.
Về mặt di tích, 2 nhà bia Tiến sĩ ở 2 bên giếng Thiên Quang là nơi bảo tồn những di tích quý nhất của cả khu di tích lịch sử này. 82 tấm bia Tiến sĩ hiện còn có giá trị về nhiều mặt. Đây là những tư liệu văn tự bản gốc duy nhất được lưu giữ tại chỗ, liên tục kể từ khi được dựng.
Văn Miếu Quốc Tử Giám tọa lạc giữa thủ đô Hà Nội, được xem là trường đại học đầu tiên tại Việt Nam. Từ những năm đầu tiên, ngôi trường này đã tụ họp rất nhiều người tài, đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay Văn Miếu vẫn là điểm đến của nhiều du khách khi ghé thăm Hà Nội bởi kiến trúc độc đáo, ấn tượng.
Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua bao nhiêu biến động, thăng trầm của lịch sử nhưng nó vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của con người Hà Nội. Đó là giá trị tinh thần cao đẹp được gìn giữ từ bao nhiêu năm. Văn Miếu nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long thời Lí. Văn Miếu được được vào hoạt động trong khoảng thời gian từ 1076 cho đến 1820, đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước.
Văn Miếu bao gồm hai di tích chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy đầu tiên của trường học. Trải qua bao nhiêu năm nhưng Văn Miếu vẫn giữ được những nét đẹp cổ xưa.
Ban đầu Văn Miếu là nơi học tập của các hoàng tử, sau này mới mở rộng ra cho những người tài trong cả nước. Văn Miếu có diện tích 54.331 m2 bao gồm Hồ Văn, vườn Giám và nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ. Với những kiến trúc được thiết kế từ thời xa xưa, in dấu biết bao nhiêu thăng trầm của thời gian, của những đổi thay đất nước.
Khi bước vào khu Văn Miếu, du khách sẽ đến với cổng chính, trên cổng chính là chữ Văn Miếu Môn. Phía ngoài cổng có đôi rồng đá thời Lê, bên trong là rồng đá thời Nguyễn. Khu thứ hai chính là Khuê Văn Các được xây dựng năm 1805 gồm 2 tầng, 8 mái rất rộng rãi. Đây là nơi tổ chức bình các bài thơ và văn hay của sĩ tử thời xưa. Khu thứ ba chính là từ gác Khuê Văn tới Đại Thành Môn, ở giữa có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tĩnh. Ở hai bên hồ là nơi lưu giữ 82 bia tiến sĩ có ghi tên, quê quán, chức danh của những người nổi tiếng như Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn...
Cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung; có những hiện vật quý hiếm được lưu truyền từ bao đời nay như chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc vào năm 1768. Đây được xem là chiếc chuông lớn, có giá trị lịch sử và văn hóa lâu đời. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ Xương, mặt ngoài khắc bài mình biết theo kiểu chữ lệ nói về công dụng loại nhạc cụ này. Khu thứ 5 chính là Trường Quốc Tử Giám. Ở đây là nơi dạy học, tuyển chọn người tài, đỗ đạt cao giúp cho vua nâng cao trí thức. Có rất nhiều người từ ngôi trường này đã gây nên tiếng vang lớn cho đến ngày nay như Chu Văn An, Bùi Quốc Khải...
Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hàng mang nét nghệ thuật của triều Lê và Nguyễn. Những nét kiến trúc độc đáo ấy được xây dựng khéo léo bởi những bàn tay tài hoa.
Cho đến ngày nay Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn là địa điểm du lịch của rất nhiều người, vừa nhớ về cội nguồn, vừa khấn bái, vừa tìm hiểu được lịch sử của cha ông ta. Nơi đây còn được xem là tâm điểm của Hà Nội, của thủ đô nghìn năm văn hiến.